A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chèo quê xưa và nay

Chèo là loại hình sân khấu kịch hát, gắn vưới lễ hội dân gian, các hoạt động giao lưu văn nghệ ở vùng Đồng bằng sông Hồng, là một trong nhưng môn nghệ thuật truyền thống đậm đà bản sắc văn hoá Việt. Tại xã Tự Tân đã có thời kỳ, nghệ thuật chèo đã phát triển khá mạnh, song do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà nghệ thuật đó đã dần bị mai một.

Một tiết mục múa, hát chèo của người dân xã Tự Tân 

Cách đây khoảng 60 - 70 năm, xã tôi chỉ có 4 thôn. Thôn La Điền (làng La Điền) của tôi có 5 xóm. Người làng tôi rất đam mê nghệ thuật chèo truyền thống. Những người yêu chèo bàn với nhau thành lập một chiếu chèo, bầu ông Trần Hịnh làm Trùm trưởng. Chiếu chèo làng tôi thuở ấy có rất nhiều người tham gia, nam có và nữ cũng có. Diễn viên có các ông Trần Trất, Trần Giảm, Nguyễn Văn Cải, ông Vá, ông Nhơn, ông Khảm, nữ có cô Kị, cô Tuyết, cô Tho. Nhạc công có ông Khiêm chơi nhị, ông Đình đánh trống, nhiều người vừa là diễn viên, vừa là nhạc công. Cô Hương con gái ông Hịnh cũng tự học mà dần dần trở thành người đánh trống chèo có hạng. Ban ngày, họ đi làm vất vả ngoài đồng ruộng, tối đến lại tập trung tại nhà ông Trùm trưởng để luyện tập các tiết mục.

Mới chập tối, ông Hịnh đã hối con dâu, con gái hái chè, nấu một ấm nước chè thật đặc, mang một chồng bát ra để trên cái chõng tre ở hiên nhà, diễn viên, nhạc công và cả những người đến xem đội chèo tập vở, khát thì uống, uống cho thoải mái. Bát nước chè xanh đặc quánh làm ngọt giọng các cô đào trẻ, làm mềm tay lứu, tay nhị của các vị nhạc công và ấm lòng tình người thôn xóm. Đêm nào cũng chật kín sân người đến xem và rộn ràng tiếng đàn, tiếng phách, tiếng hát chèo bay bổng giữa không trung.

Các "tay trống" của các câu lạc bộ văn nghệ

Đội chèo làng tôi sưu tầm và luyện tập rất nhiều tích chèo truyền thống, những vở chèo cổ được nhiều người ưa thích như: “Lên tháp bạc lấy hạt minh châu”, “Lã Bố hý Điêu Thuyền”, “Quan Âm Thị Kính”, “Kim Vân Kiều”, “Trưng nữ Vương”… Đội chèo làng, toàn là những người nông dân chân lấm tay bùn, mà tập được, diễn được những vở chèo như thế, thật là kì công, thật đáng ngưỡng mộ. Đang  cày dưới ruộng hoặc đang cấy lúa trên đồng, nghe ông Trùm trưởng thông báo: “Tối nay diễn ở làng bên”, thế là tháo ách trâu, xách nón lên bờ về nhà húp vội bát cháo loãng, khoác cái quần dài lên vai, thay cái áo mới, rồi cùng mọi người gánh hòm đồ đi diễn. Trang phục, đạo cụ đều do diễn viên tự mua sắm, tự làm và tự quản. Cái tâm của người yêu nghệ thuật chèo làng tôi sao mà đáng yêu đến thế. Ai cũng bảo: “Quê mình là một trong ba cái nôi của nghệ thuật chèo, phải cố mà duy trì, đừng để nó mai một mất”.  Chiếu chèo làng tôi nổi tiếng đến nỗi Nhà báo, nhà thơ Vũ Xuân Tình, cựu phóng viên Đài PT – TH Thái Bình đã phải thốt lên rằng: “Muốn nghe tiếng hát trong ngần, mời về thăm xã Tự Tân xem chèo”.

Khi giặc Pháp chiếm Thái Bình, chiếu chèo làng tôi tan, mỗi người phiêu bạt theo một hướng. Người thì ra trận, tham gia chiến dịch Điện Biên; Người vào du kích đánh giặc giữ làng. Cũng có người tham gia lực lượng địch vận, bộ đội R10 của huyện Thư Trì, dùng tiếng hát để vận động lính Bảo Hoàng bỏ hàng ngũ địch, về với nhân dân.

Ngay sau ngày giải phóng Điện Biên, một nửa đất nước đã được hòa bình, nam nữ thanh niên trong làng, có cả những diễn viên, nhạc công của chiếu chèo ông Trần Hịnh lên đường Nam Tiến, xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ. Rất nhiều người muốn dựng lại chiếu chèo truyền thông, nhưng lực bất tòng tâm, công việc bộn bề mà sao nhãng..

Đến thời kỳ “Chuyển xóm thành thôn” thì làng tôi có 4 xóm thành 4 thôn, xã tôi từ 4 thôn thành 9 thôn. Theo nghị quyết Trung ương V (khóa VIII), mỗi thôn có ít nhất một câu lạc bộ văn nghệ. Phần lớn các câu lạc bộ đều do hội phụ nữ dóng dựng. Vì vậy diễn viên toàn là nữ, không có nam, mỗi khi dựng một tiết mục, đạo diễn phải yêu cầu gái đóng giả trai. Đa số diễn viên là công nhân may thuộc nhiều Công ty, nên việc tập trung để tập tiết mục rất khó. Cái khó nữa là chẳng câu lạc bộ nào có nhạc công, mỗi khi biểu diễn đều phải nhờ trung tâm văn hóa huyện thu băng, cóp sẵn vào USB, diễn viên “hát nhép” và múa theo lời hát đã được ghi âm từ trước. Các tiết mục chủ yêu là khúc ca chèo, ca cảnh chèo ngắn gọn 5-10 phút. Một đêm diễn có tới vài chục tiết mục. Không nơi nào dựng được vở dài như chiếu chèo xưa đã làm. Đã có năm, Trung tâm văn hóa huyện cùng xã Song An khôi phục lại chiếng chèo Sáo Đền. Tuy nhiên làng nghề nghệ thuật ấy chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn. Mới đây, tôi nghe đài tỉnh, được biết huyện Thái Thụy đang đưa nghệ thuật chèo vào sân khấu học đường, đấy là một biện pháp thiết thực để duy trì nghệ thuật chèo truyền thống. Đài tỉnh cũng đã duy trì chuyên mục dạy hát chèo trên sóng truyền hình, tuy nhiên: có thêm chương trình dạy nhạc công sử dụng thành thạo các nhạc cụ dân tộc, phục vụ bộ môn chèo thì rất đúng và rất trúng nhu cầu của chương trình phát triển nghệ thuật chèo của tỉnh.


Tác giả: Bài và ảnh CTV Cao Bá Khoát
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thăm dò ý kiến
Theo bạn thông tin nội dung của website thế nào?
Thống kê truy cập
Hôm nay : 8.574
Hôm qua : 9.012
Tháng 09 : 152.885
Năm 2024 : 1.384.693